Báo Thù
Chồng tôi, người đàn ông có thân thể vốn đã yếu ớt ấy, nói với tôi rằng anh ta sẽ hiến thận cho đứa cháu trai mắc bệnh suy thận giai đoạn cuối.
Nghĩ đến cảnh anh ta chết trên bàn mổ, tôi cuống cuồng tìm đủ thứ tài liệu về những nguy hiểm khi mất đi một quả thận, mong anh ta suy nghĩ lại.
Anh ta cứ thế lưỡng lự, tiến thoái lưỡng nan. Bệnh tình của đứa cháu mỗi ngày một nặng, chị dâu tôi xông vào nhà, mồm năm miệng mười, vừa đánh vừa chửi.
Chồng tôi chỉ đứng lặng im, rồi quay sang khuyên nhủ tôi: “Thi Thi à, anh không thể trơ mắt nhìn đứa nhỏ ấy đi vào chỗ chết. Em phải hiểu cho lòng một người mẹ chứ!”
Tôi định nói: “Anh muốn hiến thì cứ hiến. Nhưng em không thể chấp nhận sống với một người chồng thiếu mất quả thận.”
Lời còn chưa dứt, tôi đã bị chị dâu, người đang mất hết lý trí, xô ngã từ ban công xuống. Cái chết đến bất ngờ, lạnh lẽo và đau đớn.
Chết rồi tôi mới biết, thì ra anh ta và chị dâu đã dan díu với nhau từ lâu. Anh ta luôn tin rằng đứa nhỏ là con mình, nên mới cam tâm tình nguyện hiến thận. Nhưng trớ trêu thay, anh ta lại vô sinh! Sự thật ấy, tôi còn chưa kịp nói ra.
Mở mắt ra lần nữa, tôi trở về đúng cái ngày anh ta nói với tôi về chuyện hiến thận.
Công chúa để mắt đến phu quân ta. Chàng khéo léo thoái thác, viện cớ gia thất vẹn toàn.
Nào ngờ hôm sau, thủ cấp ta đã nằm dưới chân chàng.
"Giờ thì, chàng không còn gia thất rồi."
Chàng không rơi lệ, chỉ lặng lẽ ôm lấy đầu ta, bước lên xe ngựa của công chúa.
Công chúa nào hay, người nàng ta vừa đoạt được, lại chính là bí thuật sư đáng sợ nhất Trung Nguyên.
Chồng tôi chết đuối bất đắc kỳ tử. Dọn dẹp di vật, tôi mới tá hỏa phát hiện tờ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, kẹp cẩn thận trong một cuốn tạp chí cũ.
Căn nhà hiện ra trước mắt khiến tôi chết lặng. Ấm áp, lãng mạn, xa hoa đến choáng ngợp. Thảm trải sàn dày, đèn chùm pha lê lấp lánh dù phủ một lớp bụi thời gian. Khác xa căn nhà cũ kỹ, chật chội chúng tôi đang ở.
Trên tường, ảnh anh ta và mối tình đầu tươi cười rạng rỡ bên cạnh hai đứa trẻ sinh đôi. Trên bàn, lá thư tuyệt mệnh nguệch ngoạc đập vào mắt: "Tang Vãn, từ ngày em mất hai năm trước, anh sống không bằng chết. Nay chữ hiếu đã tròn, con cái nên người, anh cũng chẳng còn vướng bận. Mong kiếp sau, được nối lại duyên xưa với em nơi hoàng tuyền!"
Tôi loạng choạng bước ra, đầu óc quay cuồng. Chỉ muốn xông thẳng đến mộ anh ta mà đào lên, chất vấn cho ra lẽ. Nhưng cơn giận ngút trời, khí huyết dồn lên, tôi phun ra một ngụm máu tươi, mắt tối sầm lại rồi ngã quỵ.
Tỉnh dậy, tôi thấy mình đã trở về năm thứ mười làm vợ anh ta.
Năm lên sáu, ta tận mắt nhìn thấy mẫu thân trút hơi thở cuối cùng, gương mặt đầy oán hận và đau đớn.
Hôm ấy, phụ thân nạp thiếp, tổ mẫu sai toàn bộ nha hoàn đi giúp việc, trong phòng chẳng còn ai.
Sợ mẫu thân lạnh lẽo, ta leo lên giường, ôm thi thể mẫu thân suốt đêm.
Sáng hôm sau, mắt còn ngái ngủ, ta đã thấy phụ thân hớt hải chạy đến, y phục xộc xệch, người nồng nặc mùi hương.
Ông đứng ngoài cửa, thần sắc hoảng hốt, không dám bước vào.
Ta lồm cồm bò xuống giường, đi đến trước mặt phụ thân, bảo ông quỳ xuống, rồi giáng cho ông một cái tát.
Từ đó về sau, người ta đồn rằng ta điên rồi.